Có lẽ, chúng ta thường tự hỏi, tại sao Thiên Chúa yêu thương chúng ta?
Câu trả lời đó là vì Thiên Chúa là Tình yêu. Bởi vì Ngài là tình yêu, dó đó mọi điều Ngài làm đều bắt nguồn từ tình yêu và với tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu thuần khiết, nơi Ngài không có hận thù, ganh ghét. Vì thế, không thể nào Ngài ghét chúng ta được. Tuy nhiên, chính chúng ta có thể ghét Thiên Chúa nếu chúng ta khép mình lại và liên tục từ chối tình yêu thương của Ngài.
Vì Thiên Chúa là Tình yêu, nên Ngài muốn chia sẻ hạnh phúc của Ngài với chúng ta. Vì vậy, Ngài đã tạo dựng chúng ta theo hình ảnh của Ngài. Trong tất cả các tạo vật, con người là quý giá nhất đối với Thiên Chúa. Điều này thực sự rõ ràng trong câu chuyện về sự sáng tạo của Ngài. Khi Thiên Chúa tạo dựng trời đất muôn vật, tất cả mọi thứ đều được tạo ra trong quyền năng của Lời Ngài. Thiên Chúa phán, lập tức mọi thứ đã được hình thành. “Thiên Chúa phán: ‘Phải có ánh sáng.’ Liền có ánh sáng”. (St 1,3). Đó là cách mà từng thành phần của vũ trụ này đã được tạo dựng. Tuy nhiên, việc tạo dựng con người khác với những tạo vật khác. Khi nói đến việc tạo dựng con người, Thiên Chúa dường như dừng lại một lúc và tuyên bố: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta.” (St 1,26)
Trong trình thuật về công trình tạo dựng này, mỗi khi Thiên Chúa dừng lại để quan sát công việc của Ngài, Kinh Thánh nói rằng Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp (St 1,10.12.18.25). Tuy nhiên, sau khi hoàn thành việc tạo dựng con người, “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!” (St 1,31). Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh và giống như chính Ngài, để con người như một loài thụ tạo có suy nghĩ có thể dự phần vào cuộc sống thần linh của chính Thiên Chúa. Người không làm cho con người giống như những động vật, nhưng con người được ban cho có khả năng “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4), khiến con người được trở nên con cái Thiên Chúa.
Quả thực đó là ân sủng lớn lao từ Thiên Chúa và là bằng chứng cho tình yêu bao la của Ngài.
“Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa-mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.”
(1 Ga 3,1)
Chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa bởi vì chúng ta tin nhận Chúa Giê-su Ki-tô là hình ảnh hoàn hảo của Thiên Chúa Cha. “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.” (Ga 14,9). Vì vậy, chúng ta phải luôn trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su Ki-tô. Chúng ta phải nên một với Ngài, hiệp nhất với Ngài để Ngài làm chủ trên cuộc sống của chúng ta. Chúng ta càng hiệp nhất với Chúa Giê-su, Ngài càng sống trong chúng ta, để cuối cùng:
“Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi”. (Gl 2,20).
Sự hiệp nhất của chúng ta với Chúa Giê-su cho phép Ngài truyền sự sống thần linh của Ngài vào trong chúng ta, giống như cành nho gắn trên thân cây nho và nhận được sự sống từ thân cây. Ngược lại, nếu cành tách ra khỏi thân cây, nó sẽ ngay lập tức bị khô héo và chết. Đừng nghĩ tới sinh hoa trái, để sống thôi cũng không thể:
“Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiềuhoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,4-5)
Nếu sự sống của chúng ta phụ thuộc nơi Chúa Giê-su, chúng ta có thể cảm thấy rằng chúng ta chỉ có thể sinh hoa kết trái nếu chúng ta vẫn tiếp tục kết hiệp với Ngài. Thật vậy, thái độ căn bản nhất đối với chúng ta là: phải luôn luôn ở trong sự hiệp nhất với Ngài. Nếu chúng ta luôn kết hiệp với Ngài, chúng ta sẽ trở nên hữu ích cho toàn thể Hội Thánh, thậm chí cho toàn thể nhân loại.
Không có gì sinh lợi hơn cho đời sống tâm linh của một người cho bằng việc người đó được nên một với Đức Ki-tô. Chúng ta càng hiệp nhất với Chúa Giê-su, chúng ta càng sinh nhiều hoa trái hơn cho Giáo Hội và cho nhân loại. Đó là lý do tại sao các vị thánh như Thánh Gio-an Thánh Giá nhấn mạnh sự cần thiết của sự hiệp nhất với Thiên Chúa sẽ thay đổi tất cả.
Theo Thánh Gio-an Thánh Giá, ở cấp độ sự hiệp nhất sâu sắc còn được nói đến với thuật ngữ sự kết hiệpbiến đổi với Thiên Chúa, một người được biến đổi trở nên đồng hình đồng dạng với Thiên Chúa khiến người đó dường như được biến đổi nên như Thiên Chúa. Một hành động yêu mến duy nhất của người đó trong tình trạng hiệp nhất tình yêu với Thiên Chúa, có giá trị hơn tất cả những việc mà suốt đời người đó đã thực hiện khi chưa đạt tới sự hiệp nhất nói trên.
Ở mức độ sự hiệp nhất tình yêu này, mọi hoạt động của một người đều là hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho người đó sống động. Vì vậy, một người đạt tới mức độ sự hiệp nhất tình yêu này thì có giá trị hơn rất nhiều đối với Thiên Chúa, đối với Giáo hội và ơn cứu độ của nhân loại so với hàng ngàn người khác chưa đạt được mức độ hiệp nhất này. (Thánh Gioan Thánh Giá: Tác phẩm Ngọn lửa tình nồng 1,2).
Thánh Gioan Tông đồ là người ngay từ thuở đầu đã được cảm nghiệm tình yêu của Chúa Giêsu một cách đặc biệt: trong bữa tiệc ly, ngài được ngồi gần Chúa Giêsu và tựa sát đầu vào Chúa. Trong suốt cuộc đời của mình, ngài đã được trải nghiệm mối tương quan đặc biệt với Chúa Giêsu và cảm nhận được tình yêu thương của Chúa Giêsu dành cho mình, do đó trong các sách Phúc âm, ngài được gọi là “môn đệ Đức Giêsu thương mến.”
Rõ ràng, hơn các môn đệ khác, ngài đã được đi sâu vào mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa một cách đặc biệt. Qua Tin Mừng theo Thánh Gioan, chúng ta có thể thấy Thánh Gioan đã cảm nghiệm một cách sâu sắc màu nhiệm tình yêu cao vời đó. Trong cuộc đời của mình, vị tông đồ này đã tận hưởng sự bao la của tình yêu Thiên Chúa cho đến khi về già. Với niềm tin tưởng tuyệt đối, thánh nhân nói rằng nguồn mạch tình yêu đó chính là tình yêu của Thiên Chúa. Trước khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Ngài đã yêu chúng ta trước.
“Tình yêu cốt ở điều này:
không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,
nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,
và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.“
(1 Ga 4,10)
Vì vậy, không phải vì chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa rồi sau đó Thiên Chúa yêu thương chúng ta lại. Sự thật là: chúng ta có thể yêu thương bởi vì Ngài đã yêu chúng ta trước.
“Chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1 Ga 4,19). “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Và như thế, chúng ta được ban cho khả năng để đáp trả tình yêu Thiên Chúa.
Sự thật này là một niềm an ủi lớn lao cho mỗi người chúng ta. Chúng ta không cần phải có công trạng thì mới được được Thiên Chúa yêu thương. Chúng ta phải luôn ý thức điều này: rằng chính Ngài là Đấng đã yêu thương chúng ta trước một cách nhưng không, một cách vô điều kiện và hoàn toàn không phụ thuộc vào việc chúng ta có gì tốt đẹp hay không.
Ngài yêu chúng ta bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8.16). Vì vậy, chúng ta có thể nhận ra sự to lớn của tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Tình yêu thương đó được tỏ bày cách đặc biệt nơi Con Một của Ngài, Đấng mà Ngài đã ban cho chúng ta:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,16-17).
Tình yêu Thiên Chúa cứu rỗi khiến cho bất cứ ai đáp lại tình yêu thương đó được làm cho vững vàng trở lại, được cứu thoát và trở nên một tạo vật mới. Do đó, để có được tình yêu đó, trước hết chúng ta không cần phải có thành quả, nhưng chỉ cần chúng ta mở lòng mình ra và để bản thân được Thiên Chúa yêu thương.
Thông thường kinh nghiệm của chúng ta về tình yêu con người che khuất sự hiểu biết của chúng ta về tình yêu Thiên Chúa. Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong thực tế của thế giới ngày nay có một nguyên tắc sau: Có công thì sẽ có thưởng. Trong một gia đình, con cái cũng được giáo dục theo nguyên tắc này: muốn cha mẹ yêu thương thì con cái phải nổi trội, có thể là về thành tích học tập ở trường, và nhiều thứ khác nữa. Một cách vô thức, những đứa trẻ này cũng áp dụng thái độ đó trong mối quan hệ của mình với Thiên Chúa. Chúng nghĩ rằng nếu chúng có nhiều nhân đức, chúng làm nhiều việc tốt thì Thiên Chúa mới yêu thương chúng.
Vì vậy, nhiều người đã cố gắng thực hành tất cả các loại nhân đức nhất định để làm hài lòng Thiên Chúa. Nếu họ cảm thấy mình đã có công đức, thì họ được quyền đòi hỏi Thiên Chúa đáp trả. Việc luyện tập nhân đức của họ trở nên nặng nề, bởi vì họ luôn cảm thấy mình phải có thành quả, phải có công trạng. Những người này cũng đồng thời dễ thỏa mãn với thành quả của mình nên dễ dàng sinh ra kiêu ngạo.
Thái độ đó thật khác với thái độ của một người thực sự nhận ra rằng mình được Thiên Chúa yêu thương trước, mà không có những công trạng từ phía bản thân. Trái tim của một người như thế luôn tràn ngập lòng cảm tạ và biết ơn, vì biết rằng mình được yêu thương và quý giá trong mắt của Thiên Chúa. Khi người ấy nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương, thì người ấy cũng muốn yêu mến Thiên Chúa. Tất cả những gì người ấy làm là vì người ấy yêu mến Thiên Chúa và muốn làm vui lòng Ngài. Người ấy làm điều đó không phải vì người ấy muốn có được một điều gì đó, hay vì muốn lập công đức, mà chỉ như một sự bày tỏ lòng tri ân và biết ơn đối với Đấng đã yêu thương anh ta.
Một người càng nhận biết Thiên Chúa, người đó càng nhận ra Thiên Chúa là Đấng xứng đáng được yêu mến vì Chính Ngài; không phải để nhận được một điều gì đó từ Thiên Chúa. Với niềm hân hoan người ấy thực hiện mọi điều mà Thiên Chúa đã truyền dạy. Cũng như một người đang yêu sẽ cố gắng làm cho người mình yêu được vui mà không đòi hỏi điều gì.
Nếu chúng ta nhận ra rằng chúng ta quý giá đối với Thiên Chúa và được Thiên Chúa yêu thương, thì chúng ta sẽ không tìm kiếm sự đánh giá và tôn trọng từ con người. Chúng ta sẽ không cố gắng tìm kiếm những thành quả để nhận được sự coi trọng của mọi người, nhưng chúng ta làm mọi thứ để làm vui lòng Thiên Chúa và mọi thứ chỉ dành cho Thiên Chúa mà không sợ hãi trước lời nhận xét của người đời. Bởi vì chúng ta cảm thấy rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta, chúng ta cũng sẽ chia sẻ tình yêu đó với người khác mà không đòi hỏi người khác phải đáp trả lại tình yêu của chúng ta.
Hãy nhớ rằng chúng ta có khả năng yêu thương bởi vì chúng ta đã được yêu trước. Chúng ta cũng không muốn phán xét ai, vì chúng ta ý thức rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước và đã tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Vì chúng ta đã cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa, nên chúng ta cũng có thể trao ban lòng thương xót tới người người khác.
Ở đây có một nghịch lý xảy ra: Mặc dù chúng ta chỉ yêu thương một cách thuần khiết mà không đòi hỏi sự đáp trả và không có bất kỳ động cơ nào khác, tuy nhiên cuối cùng chúng ta lại nhận được nhiều hơn. Điều này đã ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói với chúng ta:
“Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6, 37-38).
Với những người yêu mến Thiên Chúa, họ nhận ra rằng trên đời này không có gì quý giá hơn tình yêu của Ngài. Bởi thế, tình yêu đó cũng tự nguyện từ bỏ tất cả vì tình yêu, hy sinh tất cả vì tình yêu! Chính bởi Thiên Chúa là tình yêu, nên chỉ mình Thiên Chúa đã đủ cho họ; thậm chí là quá đủ. Cả cuộc đời của họ sẽ chỉ tận hiến cho Thiên Chúa để thi hành thánh ý của Ngài. Đối với họ không có gì ở đời này quý giá hơn, Thiên Chúa là tất cả.
Bởi sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa, họ có thể trở nên khí cụ nhạy bén và luôn sẵn sàng để được sử dụng trong bàn tay Thiên Chúa, để hiệp thông vào chương trình cứu độ nhân loại của Ngài. Họ cũng cảm thấy được tự do trước mọi sợ hãi, bởi vì họ biết rằng Thiên Chúa đã yêu thương họ. Họ cũng biết rằng tình yêu Thiên Chúa là vĩnh cửu và không bao giờ thay đổi:
“Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương”
(Gr 31,3).
Càng lớn lên trong sự hiểu biết Thiên Chúa, họ càng nhận ra rằng trái tim của Thiên Chúa dịu dàng hơn bất kỳ trái tim người mẹ nào. Tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn bất cứ tình yêu nào của người phụ nữ nào dành cho con mình:
“Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ. Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta” (Is 49,15-16 a).
Mùa đông năm 1896-1897, Mẹ Bề trên (Mẹ Marie de Gonzague) không muốn để Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu phải lạnh giá bàn chân, nên đã truyền chị dùng một loại lò sưởi bằng than để đôi dép chị đi luôn ấp áp. Nhưng chị chỉ dùng lò sưởi vì vâng lời và dùng khi thật cần thiết rồi để lò tắt ngấm khi cho là trời không lạnh lắm!
“Người khác sẽ trình diện trên trời với những dụng cụ hành xác, còn em, em sẽ trình diện với chiếc lò sưởi. Nhưng chị ạ, chỉ có tình yêu và đức vâng lời là đáng kể”. Chị Têrêsa thuật lại với chúng tôi một câu chuyện:
“Em đọc chuyện một vị lãnh chúa nọ muốn xây cất một thánh đường. Ông ra chiếu chỉ lệnh cho các chư hầu không được lạc quyên chi cả vì ông muốn chỉ mình ông được vinh dự đó thôi và nhà thờ đã được xây cất theo ý ông. Ngày kia có một bà già thấy đoàn ngựa kéo đá phải khó nhọc lắm mới lên được trên đồi, nên tự nhủ: đã có lệnh cấm dâng cúng tiền bạc để xây cất đền thờ Chúa, tuy vậy tôi cũng sung sướng được góp phần vào việc này, không hiểu nếu tôi giúp đỡ những con vật đang làm việc một cách vô tri như thế kia thì có làm vui lòng Chúa không nhỉ? Túi chỉ còn lại mấy đồng, bà dùng cả số tiền mua một bó cỏ cho ngựa ăn. Khi xây cất xong, vị lãnh chúa muốn cử hành lễ cung hiến và truyền đặt bia khắc tên ông cùng với gia đình để muôn đời làm chứng lòng hào hiệp của ông. Nhưng hôm sau tên ông bị xoá đi và người ta thay thế vào đó tên một người đàn bà không ai biết. Vị lãnh chúa nổi giận truyền sửa lại nhiều lần, nhưng sự kiện lạ lùng kia vẫn tái diễn hoài. Sau cùng, ông lệnh cho truy tìm bà, thấy người đàn bà nghèo hèn, ông tra hỏi xem bà có góp chút chi vào việc xây cất thánh đường không. Run rẩy sợ hãi, bà chối dài. Nhưng bị hỏi dồn dập mãi, bà mới nhớ ra bó cỏ khô lúc trước và nói rằng vì có lệnh cấm nên bà không dâng cúng tiền của mà chỉ giúp đỡ bầy ngựa bằng cách cho chúng ăn ít cỏ thôi. Lúc đó người ta mới hiểu tại sao tên bà được khắc vào bia và không còn ai dám xoá bỏ tên bà nữa”.
Têrêsa kết luận:
– Chị, em thấy rõ là một việc nhỏ bé âm thầm đến đâu chăng nữa, nếu làm vì yêu mến thì luôn có giá trị hơn những công trình vĩ đại. Điều đáng kể không phải là công việc có giá trị hay bề ngoài có vẻ thánh thiện, mà chỉ hệ tại làm vì yêu mến nhiều hay ít. Do đó không ai có thể bảo mình không dâng lên Chúa những việc
bé nhỏ như vậy được vì nó vừa sức mọi người “Chị nên ghi nhớ câu thơ sau đây trong Ca khúc tâm linh của Cha Thánh Gioan Thánh Giá”:
Trở lại đây bồ câu ta hỡi Này chàng nai mình mang thương tích Đang vươn lên tiến ra đỉnh đồi Vì chàng ngây ngất dáng nàng bay Và nhịp cánh khiến chàng tươi say.
Chị thấy chưa, vị Lang Quân là Chàng nai mình mang thương tích không ngây ngất vì chiều cao tức là vì những công việc rực rỡ, mà chỉ say mê vì dáng bay và chỉ một nhịp cánh – tức là một hành động vì bác ái chân thật – thì đã đủ tạo nên làn gió tình yêu này rồi”.
Hãy nhớ rằng không có gì là nhỏ mọn trước mắt Thiên Chúa. Ta hãy làm tất cả mọi việc vì tình yêu.
Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã phán với dân Ngài rằng, “Hãy nên thánh như Ta là Đấng Thánh” (xem Lv 19,2; Mt 5,48). Giáo Hội Công Giáo mang nét phong phú và đặc sắc trong sự thánh thiện của Đức Chúa Giê-su, Đấng là đầu và cũng là cùng đích của giáo hội.
Các vị thánh là ai? Các ngài là những người bình thường như bạn và như tôi, nhưng các ngài mang trong mình một tình yêu to lớn dành cho Thiên Chúa trong từng công việc họ làm dù lớn hay nhỏ.
Anh chị em thân mến, hàng ngày chúng ta có những nhiệm vụ khác nhau, đôi lúc nhìn từ vẻ bề ngoài thì rất đơn giản như: nấu ăn, làm vườn, học tập, viết lách, trông nhà cửa, dọn dẹp..v.v., nhưng tất cả không được coi là nhỏ nhặt trong mắt Thiên Chúa nếu chúng được làm bằng một tình yêu to lớn, thậm chí có thể mang đến giá trị cứu chuộc trong chương trình Tình Yêu của Thiên Chúa đối với các linh hồn.
Khi chúng ta nghĩ về cuộc sống của mình, phần lớn thời gian được tạo nên từ những thứ rất đơn giản và rất đỗi bình thường. Chẳng hạn như đối với cha trong tư cách một linh mục, mỗi ngày cha giảng cho nhiều người tham dự trong Thánh lễ, hay giáo viên trên giảng đường, cần chuẩn bị bài mỗi ngày cho học sinh. Nhưng nếu chúng ta thử đếm trong một tuần là bao nhiêu giờ ? Trong một ngày chỉ có 1/24 giờ dành cho Chúa, thì 23/24 giờ còn lại ở đâu? Đó là thực tế cuộc sống của chúng ta. Cuộc sống của chúng ta bao gồm những điều bình thường, nhưng sẽ có một giá trị đời đời, nếu chúng ta sống trong ánh sáng đức tin vào Thiên Chúa.
Một ví dụ rất thú vị là cuộc đời của chính Đức Trinh Nữ Maria. Trong suốt cuộc đời của mình, Mẹ Maria sống trong vai trò như một người mẹ và một người thôn nữ. Mẹ là một người phụ nữ thôn quê chất phác, sống trong một ngôi làng nhỏ ở miền Na-za-rét. Vào thời đó, ở Na-za-rét chỉ có một nguồn nước dùng chung cho tất cả mọi người. Hằng ngày, những người phụ nữ lấy nước cho nhu cầu sinh hoạt của gia đình họ. Chúng ta có thể thấy Mẹ Maria sống một cuộc sống thật giản dị, không hào nhoáng chút nào, không ai xung quanh Mẹ nghĩ và nhận ra rằng, người phụ nữ giản dị đó (mặc dù họ đã thấy và cảm thấy Mẹ Maria là một người phụ nữ tốt lành, đạo đức, sùng đạo và luôn kính sợ Thiên Chúa) là mẹ của chính Đấng Cứu Thế.
Tất cả mọi hoạt động trong cuộc sống hàng ngày như: nấu nướng, ăn uống, dọn dẹp nhà cửa, giặt giũ, lấy nước, cầu nguyện, và những việc khác. Tất cả đã được thực hiện trong sự kết hợp sâu xa mật thiết với Thiên Chúa. Trái tim của Mẹ luôn hướng về người con dấu yêu của mình. Mẹ Maria đã thi hành thánh ý Thiên Chúa qua những công việc bổn phận hằng ngày. Giống như lời của Thánh Phao-Lô đã nói: Anh chị em thân mến, dù ăn dù uống, dù làm bất cứ việc gì, anh chị em hãy làm vì vinh danh Thiên Chúa (1 Cr 10,31). Mẹ Maria chính là mẫu gương hoàn hảo cho mỗi người chúng ta. Mẹ đã thánh hóa cuộc sống hàng ngày của mẹ trong tình yêu và đức tin vào Thiên Chúa.
Điều tương tự như vậy khi chúng ta cũng nhìn vào cuộc sống âm thầm của Thánh Giuse, và ngay cả chính Chúa Giê-su, trước khi Ngài xuất hiện rao giảng cách công khai trước dân chúng. Trong ba mươi năm, Ngài làm việc như một người thợ mộc. Chúng ta biết, Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, người đã sống từ ngày này qua ngày khác để làm những công việc bình thường. Hãy tưởng tượng Chúa Giê-su được mọi người nhờ đóng bàn ghế, giường tủ,… vì không một ai biết rằng Ngài (Chúa Giê-su) là Con Thiên Chúa hằng sống. Nếu chúng ta suy niệm về điều này, chúng ta sẽ thấy một mầu nhiệm sâu xa của Thiên Chúa.
Tương tự như vậy trong cuộc đời các thánh. Các ngài đã không để bản thân bị bận tâm và xao xuyến bởi thế gian. Các Ngài đã nhận ra và thực thi thánh ý Thiên Chúa mọi giây mọi phút trong cuộc sống. Chìa khóa sống đó là mỗi giây phút họ cố gắng sống đức tin và phục tùng thánh ý Thiên Chúa đã định hình cuộc sống của họ. Cũng như lời Tin Mừng chép rằng: “Kho tàng anh em ở đâu, thì lòng anh em cũng ở đó” (Mt 6,21). Nếu chúng ta thực sự sống trong tình yêu đối với Thiên Chúa, sống cho Quê Trời thì trái tim của chúng ta sẽ không ngừng hướng về những điều làm đẹp lòng Thiên Chúa, và làm những gì mà Thiên Chúa muốn. Trong những công việc hàng ngày, nếu chúng ta thực hiện trong đức tin và tình yêu thì điều đó sẽ mang một giá trị vĩnh cửu và qua đó chúng ta đã thực thi Thánh ý Thiên Chúa.
Hãy nhớ rằng rất nhiều các thánh dòng Cát Minh trở nên cao trọng, thực ra đã chỉ làm những công việc rất đỗi nhỏ bé, tầm thường, đơn giản và được cho là vô vị. Cuộc sống của các ngài thực sự không biểu hiện ở vẻ bề ngoài. Ví dụ như Thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, trong suốt cuộc đời của ngài không được mấy ai biết đến, thậm chí không được biết đến nhiều bởi những chị em cùng tu trong Dòng với ngài vì ngài là người rất đỗi bình thường. Tương tự như vậy với Thánh Tê-rê-sa Margaretha Redi, qua đời ở tuổi 22, Chân phước Elisabet Chúa Ba Ngôi, qua đời ở tuổi 27, Thánh Tê-rê-sa Andes, qua đời ở tuổi 19 (người trẻ nhất trong số các thánh Dòng Cát Minh), hay như thầy Laurensius Chúa Phục sinh (cả đời chỉ là người thợ đóng giày và nấu ăn duy nhất trong đan viện), và những vị thánh khác. Cuộc sống rất đỗi tầm thường như vậy đó, cuối cùng đã trở nên cao trọng và trở nên những vị thánh.
Những vị thánh này đã sống cuộc đời của họ theo cách như vậy, họ đã đón nhận tất cả mọi thứ trong đức tin và tình yêu dành cho Thiên Chúa. Họ thánh hóa mọi giây phút hiện tại để tiến dâng cho Thiên Chúa. Họ chịu đựng những khó khăn, những nguy khó, vác thánh giá hàng ngày với niềm vui và thực hiện tất cả như là thực thi thánh ý Thiên Chúa. Họ đã cố gắng chiến đấu để tránh xa những điều ác và tội lỗi, luôn từ bỏ mình, để không bám víu vào những thứ không phải là Thiên Chúa. Những gian truân, đau khổ mà họ trải qua dạy họ, rèn luyện họ hình thành tính kiên nhẫn, thái độ khiêm nhường và sự thánh thiện.
Họ cũng nhận thức được rằng, đằng sau tất cả những sự kiện và biến cố này luôn có những ơn sủng làm cho họ có khả năng để dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa và mưu ích cho rất nhiều qua những sự kiện này. Nếu chúng ta nhìn bằng con mắt đức tin, tất cả các sự kiện trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta không có điều gì có thể tách rời khỏi sự quan phòng của Thiên Chúa, và tất cả chúng đều hướng chúng ta sống chân lý Phúc Âm không ngưng cho tới ngày sau hết. Trong lĩnh vực này, chúng ta phải phân biệt và nhìn nó từ hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất từ quan điểm lý thuyết (giáo lý cuộc sống thực tế) được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày và từ góc độ thiêng liêng.
Theo cách riêng của mình, Thiên Chúa dạy chúng ta theo hai cách. Một là Thiên Chúa dạy qua Tin Mừng của Ngài, cụ thể là những gì được trao ban qua Kinh Thánh, đặc biệt là Tin Mừng. Tin Mừng sẽ soi sáng cuộc sống của chúng ta, soi chiếu mọi hành động, mọi việc làm cụ thể mà chúng ta thực hiện trong cuộc sống này. Chân lý này thường bị nhiều người lãng quên. Mỗi giây phút là một hồng ân, mỗi giây phút đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa cho một mục tiêu cao cả và cho sự cứu rỗi của chính chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta thường không nhận ra điều đó, để rồi khi mọi việc không như ý, một cách bộc phát chúng ta có phản ứng càu nhàu, phàn nàn, tức giận. Và như thế chúng ta bỏ qua những giây phút đầy hồng ân và quý giá cho bản thân và cho tha nhân. Nếu không vừa ý, hoặc chỉ có một chuyện nhỏ xảy đến, người ta đã phàn nàn, càu nhàu, giận dữ, ..vv.. Đây thực sự là một điều đáng tiếc. Vì đó là cơ hội nhận được ân phúc cao vời của Thiên Chúa. Khi chúng ta nhìn vào cuộc đời của những vị thánh, họ có một đức tin rất sống động, một ví dụ cụ thể nơi bản thân Thánh Tê-rê-sa Hài Đông Giê-su. Bởi vì cuộc sống của chị rất đơn giản nên đã chỉ ra một lối nhỏ (đường thơ ấu thiêng liêng) mà ai cũng có thể theo được.
Trong những biến cố của cuộc đời chúng ta, dù là việc phục vụ dân Chúa, cho tới những việc bổn phận bình thường, được coi là vô nghĩa theo cách nhìn của người đời, thì đó là những lúc mà con người hướng đến điều duy nhất cần thiết, đó là làm theo thánh ý Thiên Chúa từ ngày này qua ngày khác. Bởi vì điều quan trọng trong cuộc sống của chúng ta là “Thi hành Thánh ý Thiên Chúa“, không phải là làm việc lớn để nổi tiếng, để được ca ngợi và được tôn trọng. Mọi việc dù lớn hay nhỏ chỉ có giá trị khi chúng ta làm trong đức tin và tình yêu trong sự hiệp nhất với thánh ý Thiên Chúa. Như chính Chúa Giê-su đã làm, khi Chúa Cha muốn Ngài sống ẩn mình trong 30 năm, thì Ngài đã thực thi điều đó trong một cuộc sống ẩn dật như một người thợ mộc bình thường. Ở ngôi làng nhỏ bé vùng thôn quê ấy, không ai đoán và biết được rằng người thợ mộc đó chính Con Thiên Chúa, Đấng Cứu độ trần gian, Đấng Mêsia.
Khi Chúa Cha muốn Ngài xuất hiện trước công chúng để rao giảng và công bố Nước Thiên Chúa, thì Ngài đã thi hành. Ngài chữa lành, Ngài loan báo Tin Mừng mà không sợ hãi, vì Ngài biết rằng đó là ý muốn của Chúa Cha. Phương châm sống của Chúa Giê-su là: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. ” (Ga 4,34) Vì vậy, mỗi giây phút đều có ý nghĩa vĩnh cửu và mỗi giây phút cũng là nghĩa vụ, trách nhiệm mà thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta ân sủng của Ngài, để làm mọi thứ như sự tỏ bày tình yêu của chúng ta dành cho Ngài. Khi chúng ta nhìn vào tất cả những điều đó, với những bậc sống khác nhau cũng là sự tỏ bày thánh ý Thiên Chúa. Như lời Thánh Phao-lô: “Và chính Người đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ. Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Ki-tô.” (Ê-phê-sô 4,11-12).
Có nhiều cách sống khác nhau, có người tích cực hoạt động tích đồ, người khác sống đời chiêm niệm ẩn khuất, nhưng tất cả đều là ý muốn của Thiên Chúa. Chúng ta sẽ sống tất cả, và Thiên Chúa yêu cầu chúng ta sống từng giây phút của cuộc đời mình trong tình yêu và lòng thương xót của Ngài. Nếu vì những yếu đuối của chúng ta hay vì những sai lầm của chúng ta, một điều gì đó xảy ra và cuối cùng cũng đè nén trái tim chúng ta, thì đó cũng là bài học từ sự quan phòng của Thiên Chúa mà chúng ta phải chấp nhận với tất cả sự khiêm hạ. Thánh Augustinô thêm vào những lời của Thánh Phao-lô: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Ngài, ngay cả những tội lỗi của họ”. Điều này không có nghĩa là chúng ta được phép phạm tội, nhưng nếu vì những yếu đuối mà chúng ta phạm tội, thì tội lỗi đó cũng có thể giúp chúng ta trở nên khiêm nhường hơn. Ví dụ như, không do lỗi của chúng ta, Thiên Chúa cho phép chúng ta không nhận được sự giúp đỡ nào đó, chúng ta phải tin và nhận ra rằng thật ra sự trợ giúp đó không thực sự cần thiết cho sự thánh hóa và ơn cứu độ của chúng ta.
Vì vậy, trong cuộc đời của các thánh, họ luôn thấy mình có một thiếu sót đó là họ cần giành một tình yêu lớn hơn cho Thiên Chúa. Họ luôn cảm thấy họ còn thiếu tình yêu. Họ không bao giờ cho là đủ, nhưng không ngừng khao khát lớn lên, bị thiêu đốt trong tình yêu giành cho Thiên Chúa.
Cầu nguyện theo Thánh Gioan Damascus là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để gặp gỡ và hiệp thông với Ngài trong tình yêu, để cầu xin những ơn cần thiết.
Cầu nguyện là đi vào mối tương quan cá nhân với Thiên Chúa, thông qua trò chuyện, ca ngợi, tạ ơn, cầu xin, khao khát và sám hối.
Khi cầu nguyện chúng ta đi vào sự thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa nói với chúng ta.
Theo thánh Têrêsa Hài Đồng Giê-su :” Đối với tôi, cầu nguyện là sự hướng lòng lên, là cái nhìn đơn sơ hướng về trời, là tiếng kêu tri ân và yêu mến cả trong cơn thử thách trong lúc vui mừng “.
Theo thánh Têrêsa Avila “cầu nguyện là một cuộc trao đổi thân tình trong đó người ta thường đàm đạo, một mình với Thiên Chúa mà ta biết rằng Ngài yêu ta.”( Tự thuật 8). Cầu nguyện không khác gì hơn là sự gặp gỡ giữa hai tình yêu, tình yêu Thiên Chúa đối với linh hồn và tình yêu linh hồn đối với Thiên Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng chúng ta theo hình ảnh của Người. Người yêu thương chúng ta và muốn chúng ta đi vào tình mật thiết với Người. Mối tương quan giữa con người và Thiên Chúa không phải là kết quả của suy nghĩ hay trí tưởng tượng của con người, mà là kết quả của hành động cứu rỗi nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa gieo sự khao khát này vào tâm hồn con người. Thiên Chúa muốn chúng ta thực sự nhận biết Ngài và cùng thông phần vào cuộc sống thần linh của Ngài. Trong Chúa Giêsu Kitô, Chúa Cha tỏ bày tình yêu của Ngài cho chúng ta. Ngài ước rằng chúng ta nên một với Ngài. Do đó, chính Thiên Chúa là người mời gọi chúng ta đi vào mối tương quan này trước. Để chúng ta có thể đáp lại lời mời gọi của Người, Thiên Chúa đã gửi Thánh Thần của Ngài đến giúp sự yếu hèn của chúng ta, vì chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào, nhưng chính Thần Khí cầu thay, nguyện giúp cho chúng ta đến với Chúa Cha bằng những tiếng rên xiết khôn tả.(Rm 8,26).
CHÚA GIÊSU LÀ MẪU GƯƠNG CẦU NGUYỆN CHO CHÚNG TA
Chúa Giêsu là một con người cầu nguyện thực sự. Trong suốt cuộc đời, Người có mối quan hệ mật thiết với Chúa Cha. Chúng ta thấy điều này trong Tin Mừng: Chúa Giêsu thường lui vào nơi thanh vắng để cầu nguyện (Mc 1,35); Chúa Giêsu cầu nguyện trên Núi Tabor với các môn đệ của Ngài (Lc 9,28-30); trong hành trình hoạt động tông đồ của mình, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện; Khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu ngước nhìn lên trời, dâng lời tạ ơn lên Chúa Cha; Chúa Giêsu đã cầu nguyện trong vườn Giêt-si-ma-ni trước khi Ngài chịu chết (Lc 22,39-46). Vì vậy có thể kết luận rằng lời cầu nguyện của Chúa Giêsu xuất phát từ mối quan hệ mật thiết của Ngài với Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu càng mật thiết với Chúa Cha, thì càng chứng tỏ rằng Ngài luôn sống trước sự hiện diện của Chúa Cha, như Tin Mừng Ga 4,34. “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Ðấng đã sai Thầy ”. Trong Ga 5,19: ”Điều gì Chúa Cha làm thì người Con cũng làm theo như vậy”.
Chúa Giêsu cũng mời gọi tất cả chúng ta tham gia vào mối tương quan mật thiết của Ngài với Chúa Cha. Ngài gửi Đấng Bảo Trợ đến với chúng ta, để trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể trở thành con cái Thiên Chúa và được thông phần trong mầu nhiệm tình yêu trọn hảo với Thiên Chúa Cha. “Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô.. “(Ga 17,3).
Ý NGHĨA THẦN HỌC CỦA CẦU NGUYỆN GIÊSU
Cầu nguyện Giêsu là một hình thức cầu nguyện rất phổ biến trong Kitô giáo Đông phương, cả Chính thống giáo và Công giáo, họ dùng “dây cầu nguyện” (sợi dây có thắt nhiều nút) tương tự như tràng hạt của Tây phương. Cầu nguyện Giê-su rất đơn giản, nhưng có giá trị rất thâm sâu, dễ dàng thực hiện nhưng rất hiệu quả trong việc giúp người tín hữu tiến sâu vào trong mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa và ngày càng triển nở trong đời sống thiêng liêng. Trọng tâm của cầu nguyện Giêsu là kêu tên Danh Thánh Giêsu. Đó là lý do tại sao được gọi là cầu nguyện Giêsu.
Sang thế kỷ XIII, với sự ra đời của hai dòng Đa Minh và Phan-xi-cô, việc tôn kính danh Chúa Giêsu được phổ biến trong dân gian nhờ công cuộc giảng thuyết, cách riêng kể từ sau công đồng Lyon năm 1274. Công đồng này truyền phải tỏ lòng tôn kính, không chỉ khuyến khích các tín hữu cúi đầu khi nghe danh thánh Giêsu, nhưng còn cổ động lòng yêu mến danh thánh qua việc khắc tên thánh Giêsu trên thân mình, trên cửa nhà, trên các tường thành, dưới ký hiệu JHS – ba chữ đầu tiên trong tiếng Hy-lạp Jesus nhưng được tán ra tiếng La-tinh là viết tắt của “Jesus hominum salvator” (Giêsu cứu chuộc nhân loại). một cách cụ thể trong phụng vụ phải cúi đầu khi đọc danh cực trọng này.
Giáo hội Công giáo dành tháng Giêng để tôn kính Thánh Danh Chúa Giêsu.
Qua lòng tôn sùng này, Giáo hội nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của Thánh Danh Đức Kitô, đồng thời khuyến khích chúng ta cầu nguyện nhân Danh Ngài.
Kêu danh thánh Giêsu, không có nghĩa là đọc một cách máy móc, nhưng là kêu cầu với tâm tình tin, cậy, mến . Cầu nguyện Giê-su biểu hiện khao khát của con tim muốn nhận biết và cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta diễn tả tất cả những điều đó trong trái tim của chúng ta đặt để nơi Danh Thánh Giê-su.
Lời dạy của Giáo Hội về Danh Thánh Giê-su trong sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo như sau :
432. Danh “Giêsu” nói lên rằng chính Danh Thánh Thiên Chúa hiện diện nơi bản thân của Con Ngài, Đấng đã làm người để cứu chuộc mọi người khỏi tội lỗi một cách dứt khoát. “Giêsu” là một Danh thần linh, Danh duy nhất mang lại ơn cứu độ, và từ nay mọi người có thể kêu cầu Danh của Người, bởi vì qua việc Nhập Thể, chính Người đã tự kết hợp với tất cả mọi người đến độ “dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,12).
433. Thánh danh Thiên Chúa Cứu Độ được vị thượng tế kêu cầu mỗi năm một lần để xin ơn xá tội cho Israel, khi ông lấy máu của hy lễ rảy lên bàn xá tội trong nơi Cực Thánh. Bàn xá tội xưa là nơi Thiên Chúa hiện diện. Khi thánh Phaolô nói về Chúa Giêsu: “Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu của Người” (Rm 3,25), ông muốn nói rằng trong bản tính nhân loại của Chúa Giêsu, “Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Ngài” (2 Cr 5,l9).
434. Việc phục sinh của Chúa Giêsu làm hiển vinh thánh danh Thiên Chúa Cứu Độ, bởi vì từ lúc đó Danh Giêsu bày tỏ cách trọn vẹn quyền năng tối thượng của “Danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2,9-l0). Các Thần dữ khiếp sợ Danh Người, và nhân Danh Người, các môn đệ Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, bởi vì tất cả những gì họ xin Chúa Cha nhân danh Chúa Giêsu, Chúa Cha đều ban cho họ.
435. Danh Chúa Giêsu nằm ở trung tâm của kinh nguyện Kitô giáo. Tất cả các lời nguyện trong phụng vụ đều kết thúc bằng công thức: “Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”. Tột đỉnh của Kinh Kính Mừng Maria là câu “và Giêsu, con lòng Bà gồm phúc lạ”. Lời tâm nguyện của Giáo Hội Đông phương, gọi là “Lời khẩn nguyện Chúa Giêsu” (oratio Iesu) thưa lên rằng: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Nhiều Kitô hữu đã chết khi miệng chỉ kêu danh thánh “Giêsu”, như thánh nữ Jeanne d’Arc.
Danh thánh Giê-su trong Lời cầu nguyện này dựa trên quyền năng của Danh Thánh Chúa.“Bấy giờ hết những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu độ.” (Cv2,21; Cv 4,12). Bằng cách kêu cầu danh Thánh Chúa Giêsu, chúng ta kêu cầu sự hiện diện của Ngài hay chính xác hơn là chúng ta đặt mình trước sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng thực sự luôn hiện diện, nhưng chính chúng ta không nhận thức được sự hiện diện của Ngài. Danh Thánh Giêsu sẽ cứu độ, chữa lành và thánh hóa chúng ta.
CÔNG THỨC TRONG CẦU NGUYỆN GIÊSU:
Có nhiều công thức khác nhau trong cầu nguyện Giê-su:
Một số người sử dụng lời cầu nguyện: ” Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót con.” Những lời này phát ra từ tiếng kêu của người mù thành Giê-ri-cô, người đã xin được Chúa Giê-su chữa lành (Lc 18,38).
Một số khác sử dụng những lời của người thu thuế trong Tin Mừng : “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13).
Một cách thực tế có thể sử dụng công thức dài : “ Lạy Chúa Giê-su Ki-tô , con Thiên Chúa Hằng Sống, xin thương xót con là kẻ có tội.”
Chúng ta cũng có thể nói một cách đơn giản: Lạy Chúa Giêsu hay thậm chí chỉ là Giê-su, Giê-su, Giê-su.
Các công thức này có thể khác nhau, nhưng chỉ nên sử dụng một công thức. Thánh Gioan Climacus, một người được Thiên Chúa mang tới bậc hoàn thiện qua hình thức cầu nguyện này, cho chúng ta lời khuyên: “Thông thường việc sử dụng nhiều từ trong lời cầu nguyện của chúng ta sẽ dễ gây chia trí và không đem đến kết quả tốt, trong khi chỉ dùng một từ duy nhất, đó là Danh Thánh Giê-su, có thể giúp chúng ta có được sự tập trung. “
Chúng ta kêu Danh Thánh Giê-su theo nhịp thở của chúng ta. Khi chúng ta lấy hơi (hít vào ) chúng ta kêu “Giê” và khi chúng ta thở ra chúng ta kêu “ su”.
LUYỆN TẬP TÂM THỨC:
Thông thường mọi người gặp nhiều khó khăn trong việc cầu nguyện vì sự ồn ào và náo nhiệt trong tâm hồn. Đó là lý do tại sao trước tiên chúng ta cần tạo ra sự thinh lặng nội tâm, để chúng ta có thể đi vào cách cầu nguyện sâu hơn. Để đạt được điều này, chúng ta có thể luyện tập tâm thức. Mục đích của việc luyện tập này là nâng cao khả năng tập trung và nhạy cảm đối với thế giới xung quanh chúng ta, do đó cũng nhạy bén trước tác động của Chúa Thánh Thần trong chúng ta. Trong việc rèn luyện này, chúng ta có thể cảm nhận âm thanh, những đồ vật như thánh giá, nến, cảm nhận sự tiếp xúc của quần áo chúng ta đang mặc, làn gió nhẹ trên làn da, ý thức hơi thở của chúng ta, v.v. Việc rèn luyện này giúp chúng ta tập trung. Trong cầu nguyện Giêsu, những rèn luyện này mang lại kết quả tốt nhất nếu chỉ được sử khoảng, 2-3 phút là đủ.
CẦU NGUYỆN VÀ HƠI THỞ:
Cách cầu nguyện này có thể được thực hiện bất cứ lúc nào, trong mọi hoàn cảnh, trên xe buýt hoặc tàu hỏa, hoặc khi chúng ta làm bất kỳ công việc hàng ngày nào khác mà không cần sự tập trung đầy đủ như lái xe, quét nhà, tản bộ, chờ bác sĩ,trên đường đi làm, đi học v.v.
Cầu nguyện Giêsu không chỉ là một thực hành bên ngoài, mà phải dẫn chúng ta đến cầu nguyện nội tâm hơn. Để đạt được điều này, chúng ta có thể đồng bộ hóa lời cầu nguyện của chúng ta với hơi thở, ví dụ, khi chúng ta hít thở, chúng ta có thể nói ‘Lạy Chúa Giêsu’ và khi chúng ta thở ra, chúng ta có thể nói ‘Xin thương xót con’.
Lời nguyện này có thể ngắn hơn: chỉ có” Lạy Chúa Giê-su“, thậm chí chỉ là tên “Giê-su “. Chúng ta kêu Danh Thánh Giê-su theo nhịp thở của chúng ta. Khi chúng ta lấy hơi (hít vào ) chúng ta kêu “Giê” và khi chúng ta thở ra chúng ta kêu “ su”. Một cách chậm dãi chúng ta lặp đi lặp lại : “ Giê…su…Giê…su…Giê…su…
Bằng cách đồng bộ hóa lời cầu nguyện cùng với hơi thở của chúng ta, tinh thần của chúng ta sẽ lắng đọng và chúng ta sẽ tìm thấy sự bình an. Tâm trí của chúng ta dễ tập trung hơn và dần dần tinh thần của chúng ta sẽ kiểm soát được suy nghĩ, những tưởng tượng và ý tưởng của chúng ta. Tinh thần của chúng ta sẽ hướng vào nội tâm và ngày càng trở nên đồng nhất, nhờ đó đạt được sự hài hòa.
NHỮNG CẢN TRỞ TRONG CẦU NGUYỆN GIÊSU:
Khi thực hành cầu nguyện Giê-su thường xuyên chúng ta cảm thấy bản thân không thể tập trung, thân thể hiện diện ở đây, nhưng suy nghĩ của chúng ta bay đi đây đó. Điều này được gọi là sự chia trí. Một điều rất bình thường bởi vì bản tính con người vốn yếu đuối. Khi cầu nguyện Giê-su suy nghĩ chúng ta chỉ muốn quy hướng về Danh Thánh Giê-su vì vậy chúng ta cần cố gắng không ngừng để có thể vượt qua sự chia trí này. Thánh Têrêsa Avila, đấng cải tổ Dòng Cát Minh , là bậc thầy dạy về cầu nguyện nói với chúng ta về chia trí: “Những lo ra chia trí là điều không thể tránh khỏi, đừng để chúng trở thành nỗi bận tâm và buồn bực cho bạn…Đừng để ý đến ý tưởng này, và cũng đừng trách linh hồn vì trí tưởng tượng kém cỏi, bản tính nhân loại và những nguyên nhân xấu xa”( Sách Lâu đài nội tâm IV, 1, 13-14).
Khi chúng ta nhận thức chúng ta đang chia trí: hãy cố gắng bình tĩnh, đừng trở nên khó chịu với bản thân, hãy từ từ trở lại kêu tên Giê-su. Chúng ta cũng có thể mở Kinh Thánh và đọc một đoạn lời Chúa, hoặc mở mắt nhìn vào Thánh Giá hay ảnh tượng công giáo, để giúp tập trung trở lại. Sau khi sự chia trí này biến mất, chúng ta nhắm mắt trở lại và tiếp tục kêu Danh Thánh Giê-su.
Trong tác phẩm Lâu đài nội tâm Thánh Têrêxa Avila nói rằng Thiên Chúa ngự trị trong sâu thẳm tâm hồn chúng ta. Chúa đứng trước và gõ cánh cửa cánh tâm hồn của chúng ta (Kh 3,20). Để gặp được Thiên Chúa, chúng ta phải đi vào tâm hồn mình. Chúng ta chỉ có thể làm điều này nếu chúng ta loại bỏ khỏi tâm hồn tất cả trước những cảm xúc như lo lắng, sợ hãi, thù hận, cảm giác sai trái, ghen tị… Chúng ta không được phép tìm kiếm sự trợ giúp qua bùa ngải, học phép thuật tự vệ và có bất kỳ mối quan hệ nào với các quyền lực bóng tối / thầy pháp / bói toán. Để đạt được sự bình an nội tâm, chúng ta phải mở tâm hồn với Chúa, sám hối, ăn năn và đón nhận ân sủng, lòng thương xót của Thiên Chúa.
ĐỘNG LỰC CẦU NGUYỆN
Cầu nguyện Giêsu nên là một sự dâng hiến chân thành của chúng ta cho Thiên Chúa, bằng cách tự do dâng hiến thời giờ của chúng ta cho Thiên Chúa, bởi vì như Thánh Têrêsa Avila đã nói : “ Thiên Chúa xứng đáng được chúng ta yêu mến bởi vì chính ngài “.
Mục đích của việc cầu nguyện là đặt mình trước Thiên Chúa, Đấng chúng ta hằng khao khát. Ngay cả khi giờ cầu nguyện của chúng ta có khô khan, nhưng giờ cầu nguyện đó rất giá trị vì trong sự thinh lặng Thiên Chúa mặc khải chính mình Ngài một cách thầm kín, Thiên Chúa tuôn đổ tình yêu, sự khôn ngoan của Ngài vào tâm hồn chúng ta, để đến một lúc nào đó tâm hồn chúng ta sẽ cháy lửa lửa yêu mến Thiên Chúa. Động lực cầu nguyện của chúng ta càng trong sáng, lời cầu nguyện của chúng ta càng đẹp lòng Thiên Chúa.
NHỮNG BIỂU HIỆU THỈNH THOẢNG XUẤT HIỆN KHI CẦU NGUYỆN
Trong khi chúng ta đang cầu nguyện Giêsu có thể xuất hiện các dấu hiệu, chẳng hạn như: cơ thể lắc lư về phía trước / phía sau / sang một bên, chúng ta có thể thấy ánh sáng / tia sáng, chúng ta có thể thấy một số thị kiến, bàn tay run rẩy, chúng ta có thể cảm thấy rằng Chúa Giêsu ôm lấy chúng ta, chảy nước mắt, cảm giác nóng hoặc lạnh trong cơ thể, v.v … Nếu những biểu hiện này xảy ra khi chúng ta vào trong sự tập trung cao độ của cầu nguyện: Không cần phải sợ, chúng ta hãy cứ bình tĩnh , cố gắng kiểm soát , nếu không thể hãy cứ để như vậy và không cần chú ý nhiều đến những biểu hiện đó.
Chúng ta không nên quan tâm đến những trải nghiệm này. Chúng ta không được tìm kiếm những trải nghiệm như vậy trong cầu nguyện. Nếu chúng ta trải nghiệm một trong những dấu hiệu này trong cầu nguyện Giêsu, thì chúng ta nên tạ ơn Chúa; Nếu không cảm nhận được điều gì chúng ta vẫn cám ơn Chúa, bởi vì trong cẩu nguyện chúng ta không tìm kiếm sự an ủi hay bất kỳ trải nghiệm nào, chúng ta chỉ tìm kiếm chính Chúa Giêsu, Đấng hiện diện trong tâm hồn chúng ta như Thánh Têrêsa Avila đã nói rằng :” Trong cầu nguyện, điều quan trọng không phải là nghĩ nhiều về Chúa nhưng là yêu mến nhiều.”
Một người hỏi Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta : Bí quyết cầu nguyện của mẹ là gì ? Mẹ trả lời : “ Tôi không có bí quyêt nào cả, khi cầu nguyện tôi yêu mến Chúa.”
HOA TRÁI CỦA CẦU NGUYỆN GIÊSU:
Nếu kiên trì và trung thành trong cầu nguyện Giê-su chúng ta sẽ nhận được nhiều hoa trái :
Giúp những người mới bắt đầu giải thoát bản thân khỏi những dao động của tâm trí và giúp tập trung sự chú ý của họ.
Mang đến sự tịnh tâm và bình an trong tâm hồn và trút bỏ những gánh nặng của cuộc sống.
Cầu nguyện Giêsu khôi phục sự toàn vẹn của con người: Vì tội nguyên tổ, mối tương quan của con người và Thiên Chúa bị phá vỡ, con người khó tập trung suy nghĩ hướng về Thiên Chúa, bản chất của con người bị tổn thương, tâm trí và linh hồn rơi vào tình trạng không hàihòa, tâm trí không thể tập trung, cảm xúc luôn thay đổi (đau khổ, bị tổn thương, hận thù) và ý chí trở nên yếu nhược. Trong Truyền thống Giáo hội Đông phương, Danh Giêsu không chỉ dừng lại ở trong tâm trí mà phải đi vào tâm hồn. Do đó, bằng cách lặp lại Danh Giêsu trong tâm trí với một tâm hồn hướng về Thiên Chúa, chúng ta sẽ dần dần khôi phục sự toàn vẹn của con người chúng ta trở lại, sự chú ý và khả năng tập trung của chúng ta sẽ được phát triển cùng với trí nhớ của chúng ta ngày càng được tăng cường.
Cầu nguyện Giêsu có thể giúp chúng ta nhạy cảm hơn với những thúc đẩy của Chúa Thánh Thần:Nếu tâm hồn và tâm trí của chúng ta tĩnh lặng và bình an, chúng ta sẽ dễ dàng nghe được tiếng Chúa. Một người càng mở lòng ra với Chúa Thánh Thần, thì hiển nhiên sẽ càng nhận được nhiều các hoa trái của Ngài trong cuộc sống thường ngày (Gl 5:22)
Cầu nguyện Giêsu cũng ảnh hưởng đến thể lý của chúng ta: Hít &Thở thường xuyên một cách đều đặn sẽ có lợi cho sức khỏe của chúng ta. Nhiều trường hợp khi cầu nguyện Giê-su đã được Thiên Chúa chữa lành khỏi bệnh tật thế lí và tinh thần, đặc biệt với những bệnh về tâm thần. Bởi vì nơi đâu chúng ta kêu cầu danh thánh Giê-su ở nới đó quyền năng của Thiên Chúa sẽ tỏ lộ. Vì thế không ngạc nhiên khi xảy ra sự chữa lành khi cầu nguyện Giê-su.
Giúp biến đổi đời sống, ngày một nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su: Quá trình này có thể so sánh với việc làm trứng muối, lúc đầu người ta lấy trứng bình thường đem ngâm trong dung dịch muối hay đá trộn với muối, sau đó vị mặn sẽ từ từ ngấm vào trứng nên trứng trở nên mặn. Tương tự như vậy, bằng cách liên tục kêu cầu danh Chúa Giê-su, luôn luôn gọi tên Giê-su, quy hướng tâm trí về Chúa Giê-su, thì dần dần chúng ta sẽ được biến đổi và trở nên đồng hình đồng dạng vời Ngài. Đồng thời giúp chúng ta luôn sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ làm chúng ta no thoả và cảm nghiệm sự ngọt ngào của vinh quang thiên đàng ngay từ đời này. Chúng ta sẽ được giải thoát khỏi mọi lo âu và sẽ có đủ sức chịu đựng những gánh nặng cũng như những thập giá trong cuộc sống. Tâm trí của chúng ta sẽ nhận được nhiều hơn ánh sáng thiên đàng để chúng ta có thể hiểu và thấm nhuần những mầu nhiệm về Thiên Chúa trong Kinh Thánh cũng như trong chương trình của Chúa qua cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Cầu nguyện Giê-su là phương tiện đưa chúng ta tiến vào chiêm niệm:
Nếu chúng ta kiên trì và trung thành trong cầu nguyện Giêsu, thì cách cầu nguyện này sẽ từ từ đưa chúng ta vào chiêm niệm, bởi vì linh hồn sẽ quen với việc hoàn toàn quy hướng về sự hiện diện của Chúa Giêsu. Dần dần chúng ta sẽ ít chia trí hơn, thậm trí những chia trí này sẽ biến mất. Tâm hồn của chúng ta sẽ đi sâu vào sự thinh lặng và chúng ta sẽ cầu nguyện trong Thần Khí và Sự Thật . Để phát triển tâm linh, thinh lặng rất cần thiết. Trong thinh lặng, chúng ta có thể trải nghiệm sự chữa lành khỏi những rối loạn tâm lý và một cuộc sống vô nghĩa trong quá khứ, chúng ta được giải thoát khỏi những ràng buộc tội lỗi và chúng ta sẽ cảm nghiệm tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa.
Thực sự trong đời sống cầu nguyện, chúng ta có thể khao khát chiêm niệm, như Thánh Gioan Thánh Giá đã nói: trong cầu nguyện, chúng ta không được tìm kiếm một số cảm nghiệm tâm linh, an ủi thiêng liêng , mặc khải, hoặc lời nói bên trong nội tâm; nhưng trong cầu nguyện, chúng ta có thể khao khát ơn chiêm niệm.
Nếu chúng ta chỉ tìm kiếm một số trải nghiệm tâm linh, những an ủi thiêng liêng, những mặc khải, những thị kiến hoặc lời nói trong nội tâm, thì điều này có thể được hiểu như thể chúng ta chỉ tìm kiếm những món quà từ Thiên Chúa, chứ không tìm kiếm Thiên Chúa, là người ban tặng những món quà đó.
Trong khi đó, bằng cách khao khát ơn chiêm niệm, chúng ta khao khát và hy vọng được nhận biết và yêu mến Thiên Chúa một cách thuần khiết hơn, và chúng ta được mở ra để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong tâm hồn chúng ta. Chúa Thánh Thần sẽ thanh tẩy và chuẩn bị cho chúng ta đạt tới sự hiệp nhất với Thiên Chúa trong đức tin và tình yêu cho đến khi nên một với Thiên Chúa.
THINH LẶNG VÀ CHIÊM NGẮM :
Nếu đôi khi chúng ta bị thu hút vào thinh lặng mà không sử dụng từ ngữ, chúng ta phải làm theo sự thúc đẩy này mà không cần lăp lại “Giêsu”, với điều kiện là chúng ta ý thức được sự hiện diện của Chúa trong sự thinh lặng này. Đừng sợ thinh lặng khi không làm gì cả, đừng sợ sự vô vị , bởi vì sự thinh lặng này có giá trị hơn bất kỳ hoạt động nào của tâm trí, trí nhớ hoặc ý chí. Quả thật ta đừng quên rằng nếu việc cầu nguyện là một cuộc đối thoại với Thiên Chúa, cuộc đối thoại này có thể thinh lặng. “Lạy Thiên Chúa , thinh lặng đối với Ngài là lời ca tụng.” Theo bản dịch Híp-ri (Tv 65,2). Cha Marie Eugenne tác giả Tôi muốn thấy Thiên Chúa khẳng định như sau :” Đối với người thiêng liêng đã cảm nếm Thiên Chúa, thì thinh lặng và Thiên Chúa đồng hóa với nhau. Vì Thiên Chúa nói trong thinh lặng, và dường như chỉ có thinh lặng mới diễn tả được Thiên Chúa”. Chính trong sự thinh lặng này, Thần Khí Thiên Chúa có thể thanh tẩy và giải thoát chúng ta khỏi mọi ràng buộc mà không gặp trở ngại, và tuôn đổ sự khôn ngoan vào tâm hồn ta. Không thể hiểu được cách mà Thiên Chúa sẽ gia tăng các nhân đức cho ta.
Cầu nguyện Giêsu dẫn một người đến chiêm ngắm .Từ “ Chiêm ngắm “bắt nguồn từ chữ “contemplare” có nghĩa là nhìn lên Thiên Chúa trong một thái độ thờ phượng và tôn kính. Đấng mà chúng ta tôn kính là Thiên Chúa và những mầu nhiệm của Người. Chúng ta nhìn Ngài với đức tin, trầm trồ thán phục và nhận ra sự cao cả và vinh quang của Ngài, đến nỗi chúng ta không thể tìm thấy ngôn từ nào nào nữa và thái độ đúng đắn duy nhất là đầu phục, thờ phượng và mở lòng ra với Ngài. Hãy để Thiên Chúa thực hiện trên chúng ta những dự định, những ý muốn của Ngài.
THỰC HÀNH CẦU NGUYỆN GIÊ-SU
1. Cầu nguyện Giê-su có thể được thực hiện vào những thời điểm đặc biệt, vào cùng một thời điểm và địa điểm.
Khi mới bắt đầu chúng ta có thể cầu nguyện 20 phút mỗi ngày, sau đó có thể tăng dần lên từ 30 phút đến 1 giờ. Chúng ta cầu nguyện vào cùng 1 thời gian giúp chúng ta rèn luyện tính kỷ luật, để không trì hoãn thời gian cầu nguyện. Sau đó, chúng ta cầu nguyện ở cùng một nơi, chẳng hạn nếu khả năng có thể làm phòng cầu nguyện tại nhà, nhưng nếu không thể thì có thể chuẩn bị nơi cầu nguyện với thánh giá hoặc hoặc các tranh ảnh tượng công giáo. Chúng ta làm điều này để tạo ra bầu không khí sự hiện diện của Thiên Chúa trong nhà của chúng ta.
2. Cầu nguyện Giê-su là một phương tiện hữu hiệu giúp ta sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa suốt cả ngày, vì vậy hãy cầu nguyện liên tục, chẳng hạn khi đang đi bộ, trước khi đi ngủ hoặc sau khi thức dậy, lúc tắm, khi nấu ăn, may vá, khi lao động chân tay, trên đường đi làm việc, trên đường đi họ, hoặc khi đang nằm trên giường bệnh…
Một cách chậm dãi chúng ta sẽ luôn ý thực sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta . Danh Giê-su tiếp tục vang lên trong tâm trí, trong tâm hồn chúng ta theo từng bước chân , từng nhịp thở của chúng ta. Chúng ta có thể bước theo Chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giê-su để luôn tưởng nhớ đến Chúa: “Không bao giờ quá ba phút mà em không tưởng nhớ tới Chúa.” “ Người yêu thực sự yêu mọi nơi và luôn luôn nghĩ đến người mình yêu ! khó có thể thực hiện điều đó nếu như chúng ta chỉ có thể cầu nguyện khi vào một góc nào đó. Mỗi ngày chúng ta phải học lại để biết cho Thiên Chúa chỗ nhất để nhận mọi sự từ Lòng Thương Xót của Ngài. Như Thánh Phê-rô ngày xưa , Ngài hỏi chúng ta : “ Anh có mến Thầy không “( Ga 21,17). Nếu như càng ngày chúng ta càng quen sống có Thiên Chúa hiện diện bên cạnh chúng ta , chúng ta sẽ ngày càng tiến vào tình mật thiết với Thiên Chúa, lúc đó chúng ta sẽ làm mọi việc vì yêu mến và đẹp lòng Thiên Chúa, Thiên chúa sẽ không bao giờ rời xa chúng ta, trong mọi thử thách Ngài sẽ luôn nâng đỡ, và chúng ta sẽ gặp Người khắp mọi nơi. Và như thế chúng ta có thể thực hiện lệnh truyền của Thiên Chúa là yêu mến Chúa hết linh hồn , hết trí khôn…
TƯ THẾ TRONG CẦU NGUYỆN GIÊSU:
Chúng ta hãy chọn cho mình một thư thế cầu nguyện xứng đáng và phù hợp với mỗi người. Dưới đây là một vài tư thế ngồi, tư thế tay phổ biến trong cầu nguyện Giê-su nhằm hỗ trợ chúng ta có thể tập trung hơn trong cầu nguyện :
Ngồi trên ghế / gối / đệm hoặc khoanh chân.
2. Ngồi khoanh chân và ngồi xếp chân.
Cố gắng giữ lưng thẳng và nhìn về phía trước.
3. Tư thế tay:
Đặt hai tay lên đùi với lòng bàn tay mở lên hoặc úp xuống.
– Lòng bàn tay mở ra bày tỏ thái độ mở lòng ra với Chúa để đón nhận ân sủng của Ngài.
– Lòng bàn tay úp xuống bày tỏ thái độ đầu phục, khiêm hạ của chúng ta trước Thiên Chúa.
– Tay đan lại : Tư thế thông thường khi cầu nguyện.